gom viet nam(tt)
quangnam :: NGHE THUAT :: DO GOM
Trang 1 trong tổng số 1 trang
gom viet nam(tt)
Men trắng Chàm và men tam thái nổi danh và được ưa chuộng hơn cả. Men trắng chàm (nền men trắng, hoa văn màu xanh biếc) chiếm số lượng cao nhất. Các món đồ vớt được ở ngoài khơi Ðà Nẵng - Hội An cũng đều là men trắng chàm. Do đó, khi nói về đồ gốm Chu Ðậu, người ta chỉ thường biết về loại này mà ít để ý đến các loại men khác. Ðồ gốm Chu Ðậu men trắng chàm thường thấy bây giờ là những món chúng tôi coi là thuộc hạng kém hơn về phẩm chất. Những món có phẩm chất cao, tuyệt đẹp đã nằm trong tay các nhà sưu tập chuyên nghiệp ở Âu Châu, Úc Châu, Singapore, Hong Kong, ở các viện bảo tàng Âu Châu và Ả Rập… Từ giữa thập niên 1980 cho đến giữa thập niên 1990, những nhà sưu tập này đã vào Việt Nam vào mua hết tất cả, với những giá rất rẻ. Loại đồ gốm Chu Ðậu hạng nhất này nhiều món đẹp tuyệt vời, bứt xa đồ nhà Minh, và đẹp không kém gì đồ gốm men lam của nhà Thanh bên Tàu.
Đĩa men trắng vẽ lam - Tàu cổ Hội An (Sưu tập SFA)
Vì kỹ thuật giản dị nên màu đỏ và màu xanh lục của men tam thái Chu Ðậu không bền. Những món đồ này nằm trong lòng đất hay ngâm dưới đáy biển đã bị lợt đi hết. Phần lớn những món men tam thái ta thấy bây giờ được người ta tô lại bằng màu men tương tự, chứ hiếm khi là nước men ba màu nguyên thủy.
Tuyệt vời nhất là hoa văn trên men trắng chàm và men tam thái. Hình ảnh thuần túy Việt Nam. Họ vẽ tàu lá chuối, nhánh rong, chim sẻ, chim chích chòe, tôm, cá bống, cóc, rùa, cọng rau muống, bông hoa cúc, hoa sen. Cũng như các bình ấm Việt Nam đời trước, thảng hoặc lắm ta mới thấy một vài bình, ấm thời Chu Ðậu có quai cầm, còn ngoài ra, nơi quai cầm chỉ là một vật trang trí như con rùa, con cá, bông sen… như đồ gốm Việt Nam các thời trước.
2 - Loại hình, kiểu dáng và hoa văn trang trí trên gốm Chu Đậu
Thứ loại, hình dạng đồ gốm Chu Ðậu thật phong phú: Bát chân cao, bát chân thấp, tô, đĩa, chén, tước, bình, ấm, âu, chậu, lu, hũ, chậu, bát hương, bát trầm, chân đèn, hộp, lọ, bình vôi, nghiên mực, có cả nghiên mực hình con trâu, con cua, rồi lại còn đồ chơi của trẻ em như các hình tượng con gà, con cóc, con lợn, người cưỡi ngựa… thôi thì đủ cả, từ các món đồ dùng trong nhà người dân, trong đình chùa, trong nhà giới trưởng giả, cho đến đồ xuất cảng…
Bình tỳ bà thanh hoa, hoạ tiết lá đa được chạm lộng, vẽ trang kim...Bộ sưu tập SFA
Nhưng xem đồ gốm Chu Ðậu mà bỏ qua bình tỳ bà thì thật uổng. Ngoài các cuộc khai quật ở các lò gốm cũ ở làng Chu Ðậu, loại bình này thường được tìm thấy từ các tàu buôn đắm ngoài khơi Hội An - Ðà Nẵng. Món này xa lạ với sinh hoạt dân gian Việt Nam. Vậy phải chăng nó chỉ được làm để xuất cảng sang Ả Rập? Người Ả Rập dùng làm gì? Ðây là những câu hỏi thú vị. Như tên gọi, bình tỳ bà có hình dáng giống cây đàn tỳ bà để dựng đứng. Mình thuôn tròn, cổ nhỏ, miệng loe, thân tròn phình to, thường có bốn tầng hoa văn, trong lòng miệng bình cũng có hình vẽ hoa lá. Tầng thứ nhất ở chung quanh cổ bình hoặc vẽ những tàu lá chuối hay hình cây lúa; tầng thứ hai khi hình hoa cúc, hoa mẫu đơn, khi thì những chuỗi hình xoắn ốc đứng; tầng thứ ba lớn nhất là hình chim chích choè, chim sẻ hay là những ô vẽ đợt sóng biển, bên cạnh những ô vẽ hình hoa lá; tầng dưới cùng là các ô với những vòng tròn hình bầu dục chồng lên nhau. Bình tỳ bà to nhỏ khác nhau, nhưng đa số thường có đường kính đáy độ 9cm, chỗ to nhất ở thân bình phình ra vào khoảng 14cm, đường kính ở cổ bình là 4cm, và ở vành miệng loe là 8cm, bình cao khoảng 30, 32cm.
Tước chân cao
Tước (hay bôi), là ly uống rượu chân cao. Ngoài những tước men ngọc, màu xanh trong, còn có những sáng kiến kỳ diệu như tước thần kim quy. Ẩn trong chân tước này là một quả nổi để lộ hình rùa thần kim quy ngồi dưới đáy, khi rượu được rót vào, thì hình thần kim quy từ từ nổi lên theo mực rượu trong lòng tước.
Ðĩa Chu Ðậu rất đẹp, men trắng trong với hoa văn màu chàm. Có những đĩa tam thái rất lớn, đường kính đến khoảng 50cm, nhưng thường thường thì vào khoảng hơn 25cm đường kính. Hoa văn trong lòng đĩa thường gồm hai phần. Vành đĩa rộng 5cm, vẽ cành rau, nhánh lá, tâm đĩa vẽ nhiều hình rất đẹp: Hình con công, con vạc, con nghê, cá chép vượt vũ môn, hươu chạy trên đồng cỏ, bên khóm trúc, bờ lúa, đôi chích chòe, đàn vịt bơi trên hồ sen, trận thủy chiến, cành mai, đóa cúc, đóa mẫu đơn… đường kính độ 15cm. Vành ngoài thành đĩa cũng vẽ những hình hoa lá rất chi tiết, hoa văn màu xanh chàm, đĩa lớn thường là men ba màu (Tam Thái). Cùng với bình tỳ bà và bát Chu Ðậu, đĩa Chu Ðậu là những món đẹp và nổi tiếng, được rất nhiều viện bảo tàng và nhà sưu tập quốc tế ưa chuộng. Tiếc thay, cũng chính vì thế mà không còn bao nhiêu món đẹp trong tay người Việt.
Bát Chu Ðậu cũng thường là men trắng chàm, đường kính ở miệng bát từ 14 đến 16cm, cao từ 8 đến 10cm. Nhiều loại hoa văn khác nhau. Khi thì chim sẻ đậu trên cành mai, khi thì đóa cúc, đóa mẫu đơn, khi thì lại là khóm phong lan… trong lòng bát. Vành trong của bát cũng vẽ những vòng tròn hoa lá. Hoa văn ở mặt ngoài bát thường gồm hai tầng, phía trên là một vành hoa mai, hoa cúc cao khoảng hơn 3cm, tầng dưới, khoảng 4cm, là những ô có hình các vòng xoắn ốc tiêu biểu của gốm Chu Ðậu. Trên vành ngoài miệng bát cũng có những vòng đồng tâm. Trôn bát không có men đã đành, vành miệng bát cũng thường không có men. Tại sao? Bởi vì nếu hai món đồ tráng men mà để chạm nhau trong lò, khi nung chín, các món này sẽ dính chặt vào nhau, không còn dùng được nữa.
Một trong những hiện vật quý của gốm Chu Đậu
Ngoài việc dùng con kê (Vòng tròn bằng đất mộc để giữa các bát đĩa cho khỏi dính vào nhau, người ta còn chừa vành bát đĩa, trôn bát đĩa trơn, không tráng men. Khi xếp vào lò nung, cứ lần lượt, miệng cái xấp úp vào miệng cái ngửa, trôn cái ngửa đặt lên trôn cái xấp, thế là chồng được vài ba tầng mà không bị hỏng. Ngoài ra, ta còn những bát có vành men cạo ở giữa đáy bát, với đường kính to bằng trôn bát. Ðây cũng là một kỹ thuật tuy kém tinh vi nhưng lại thực dụng vì khi xếp chồng các bát chén này để nung, chúng không bị dính vào nhau.
Trong gốm Chu Ðậu, có một món đồ kỳ thú, hình dáng nửa đĩa nửa bát, đường kính miệng độ 11cm, đường kính đáy độ 7cm, cái thấp thì cao gần 4cm, cái cao vào khoảng hơn 6cm. Dùng làm bát thì trẹt quá, dùng làm đĩa thì nhỏ quá mà chân lại cao. Chân chén là hoa văn hình tròn đồng tâm, hay là những đám mây bay, vành ngoài, vành trong là những vòng hoa lá, tâm chén thường có một chữ Hán (chữ Phúc, chữ Chính, chữ Trung, chữ Ngọc, chữ Kim…). Nhiều chén loại này cũng có vành men cạo. Những món này không thấy có trong đồ gốm đời Lý Trần, mà cũng không thấy trong đời sống người Việt. Tới chừng thấy người Ả Rập bây giờ dùng một thứ tương tự để uống trà, ta mới hay đây là đồ dùng chỉ để xuất cảng.
Ngoài ra còn có rất nhiều hồ rượu hoa văn trắng chàm và hoa văn tam thái. Lại có các hồ rượu hình chim vẹt hình con gà, các chén uống trà có quai cầm là chim vẹt. Lư hương và chân đèn thời Chu Ðậu lớn và đẹp vô cùng. Có những chân đèn cao 70, 80cm, lư hương cao 35, 40cm. Một số lớn có ký tên người làm và đề rõ năm tháng, như vợ chồng Ðặng Huyền Thông - Nguyễn Thị Ðỉnh, vợ chồng Ðỗ Xuân Vi - Lê Thị Ngọc, vợ chồng Bùi Duệ - Lê Thị Cận, Ðặng Hữu, Ðặng Tính Không…
Đĩa men trắng vẽ lam - Tàu cổ Hội An (Sưu tập SFA)
Vì kỹ thuật giản dị nên màu đỏ và màu xanh lục của men tam thái Chu Ðậu không bền. Những món đồ này nằm trong lòng đất hay ngâm dưới đáy biển đã bị lợt đi hết. Phần lớn những món men tam thái ta thấy bây giờ được người ta tô lại bằng màu men tương tự, chứ hiếm khi là nước men ba màu nguyên thủy.
Tuyệt vời nhất là hoa văn trên men trắng chàm và men tam thái. Hình ảnh thuần túy Việt Nam. Họ vẽ tàu lá chuối, nhánh rong, chim sẻ, chim chích chòe, tôm, cá bống, cóc, rùa, cọng rau muống, bông hoa cúc, hoa sen. Cũng như các bình ấm Việt Nam đời trước, thảng hoặc lắm ta mới thấy một vài bình, ấm thời Chu Ðậu có quai cầm, còn ngoài ra, nơi quai cầm chỉ là một vật trang trí như con rùa, con cá, bông sen… như đồ gốm Việt Nam các thời trước.
2 - Loại hình, kiểu dáng và hoa văn trang trí trên gốm Chu Đậu
Thứ loại, hình dạng đồ gốm Chu Ðậu thật phong phú: Bát chân cao, bát chân thấp, tô, đĩa, chén, tước, bình, ấm, âu, chậu, lu, hũ, chậu, bát hương, bát trầm, chân đèn, hộp, lọ, bình vôi, nghiên mực, có cả nghiên mực hình con trâu, con cua, rồi lại còn đồ chơi của trẻ em như các hình tượng con gà, con cóc, con lợn, người cưỡi ngựa… thôi thì đủ cả, từ các món đồ dùng trong nhà người dân, trong đình chùa, trong nhà giới trưởng giả, cho đến đồ xuất cảng…
Bình tỳ bà thanh hoa, hoạ tiết lá đa được chạm lộng, vẽ trang kim...Bộ sưu tập SFA
Nhưng xem đồ gốm Chu Ðậu mà bỏ qua bình tỳ bà thì thật uổng. Ngoài các cuộc khai quật ở các lò gốm cũ ở làng Chu Ðậu, loại bình này thường được tìm thấy từ các tàu buôn đắm ngoài khơi Hội An - Ðà Nẵng. Món này xa lạ với sinh hoạt dân gian Việt Nam. Vậy phải chăng nó chỉ được làm để xuất cảng sang Ả Rập? Người Ả Rập dùng làm gì? Ðây là những câu hỏi thú vị. Như tên gọi, bình tỳ bà có hình dáng giống cây đàn tỳ bà để dựng đứng. Mình thuôn tròn, cổ nhỏ, miệng loe, thân tròn phình to, thường có bốn tầng hoa văn, trong lòng miệng bình cũng có hình vẽ hoa lá. Tầng thứ nhất ở chung quanh cổ bình hoặc vẽ những tàu lá chuối hay hình cây lúa; tầng thứ hai khi hình hoa cúc, hoa mẫu đơn, khi thì những chuỗi hình xoắn ốc đứng; tầng thứ ba lớn nhất là hình chim chích choè, chim sẻ hay là những ô vẽ đợt sóng biển, bên cạnh những ô vẽ hình hoa lá; tầng dưới cùng là các ô với những vòng tròn hình bầu dục chồng lên nhau. Bình tỳ bà to nhỏ khác nhau, nhưng đa số thường có đường kính đáy độ 9cm, chỗ to nhất ở thân bình phình ra vào khoảng 14cm, đường kính ở cổ bình là 4cm, và ở vành miệng loe là 8cm, bình cao khoảng 30, 32cm.
Tước chân cao
Tước (hay bôi), là ly uống rượu chân cao. Ngoài những tước men ngọc, màu xanh trong, còn có những sáng kiến kỳ diệu như tước thần kim quy. Ẩn trong chân tước này là một quả nổi để lộ hình rùa thần kim quy ngồi dưới đáy, khi rượu được rót vào, thì hình thần kim quy từ từ nổi lên theo mực rượu trong lòng tước.
Ðĩa Chu Ðậu rất đẹp, men trắng trong với hoa văn màu chàm. Có những đĩa tam thái rất lớn, đường kính đến khoảng 50cm, nhưng thường thường thì vào khoảng hơn 25cm đường kính. Hoa văn trong lòng đĩa thường gồm hai phần. Vành đĩa rộng 5cm, vẽ cành rau, nhánh lá, tâm đĩa vẽ nhiều hình rất đẹp: Hình con công, con vạc, con nghê, cá chép vượt vũ môn, hươu chạy trên đồng cỏ, bên khóm trúc, bờ lúa, đôi chích chòe, đàn vịt bơi trên hồ sen, trận thủy chiến, cành mai, đóa cúc, đóa mẫu đơn… đường kính độ 15cm. Vành ngoài thành đĩa cũng vẽ những hình hoa lá rất chi tiết, hoa văn màu xanh chàm, đĩa lớn thường là men ba màu (Tam Thái). Cùng với bình tỳ bà và bát Chu Ðậu, đĩa Chu Ðậu là những món đẹp và nổi tiếng, được rất nhiều viện bảo tàng và nhà sưu tập quốc tế ưa chuộng. Tiếc thay, cũng chính vì thế mà không còn bao nhiêu món đẹp trong tay người Việt.
Bát Chu Ðậu cũng thường là men trắng chàm, đường kính ở miệng bát từ 14 đến 16cm, cao từ 8 đến 10cm. Nhiều loại hoa văn khác nhau. Khi thì chim sẻ đậu trên cành mai, khi thì đóa cúc, đóa mẫu đơn, khi thì lại là khóm phong lan… trong lòng bát. Vành trong của bát cũng vẽ những vòng tròn hoa lá. Hoa văn ở mặt ngoài bát thường gồm hai tầng, phía trên là một vành hoa mai, hoa cúc cao khoảng hơn 3cm, tầng dưới, khoảng 4cm, là những ô có hình các vòng xoắn ốc tiêu biểu của gốm Chu Ðậu. Trên vành ngoài miệng bát cũng có những vòng đồng tâm. Trôn bát không có men đã đành, vành miệng bát cũng thường không có men. Tại sao? Bởi vì nếu hai món đồ tráng men mà để chạm nhau trong lò, khi nung chín, các món này sẽ dính chặt vào nhau, không còn dùng được nữa.
Một trong những hiện vật quý của gốm Chu Đậu
Ngoài việc dùng con kê (Vòng tròn bằng đất mộc để giữa các bát đĩa cho khỏi dính vào nhau, người ta còn chừa vành bát đĩa, trôn bát đĩa trơn, không tráng men. Khi xếp vào lò nung, cứ lần lượt, miệng cái xấp úp vào miệng cái ngửa, trôn cái ngửa đặt lên trôn cái xấp, thế là chồng được vài ba tầng mà không bị hỏng. Ngoài ra, ta còn những bát có vành men cạo ở giữa đáy bát, với đường kính to bằng trôn bát. Ðây cũng là một kỹ thuật tuy kém tinh vi nhưng lại thực dụng vì khi xếp chồng các bát chén này để nung, chúng không bị dính vào nhau.
Trong gốm Chu Ðậu, có một món đồ kỳ thú, hình dáng nửa đĩa nửa bát, đường kính miệng độ 11cm, đường kính đáy độ 7cm, cái thấp thì cao gần 4cm, cái cao vào khoảng hơn 6cm. Dùng làm bát thì trẹt quá, dùng làm đĩa thì nhỏ quá mà chân lại cao. Chân chén là hoa văn hình tròn đồng tâm, hay là những đám mây bay, vành ngoài, vành trong là những vòng hoa lá, tâm chén thường có một chữ Hán (chữ Phúc, chữ Chính, chữ Trung, chữ Ngọc, chữ Kim…). Nhiều chén loại này cũng có vành men cạo. Những món này không thấy có trong đồ gốm đời Lý Trần, mà cũng không thấy trong đời sống người Việt. Tới chừng thấy người Ả Rập bây giờ dùng một thứ tương tự để uống trà, ta mới hay đây là đồ dùng chỉ để xuất cảng.
Ngoài ra còn có rất nhiều hồ rượu hoa văn trắng chàm và hoa văn tam thái. Lại có các hồ rượu hình chim vẹt hình con gà, các chén uống trà có quai cầm là chim vẹt. Lư hương và chân đèn thời Chu Ðậu lớn và đẹp vô cùng. Có những chân đèn cao 70, 80cm, lư hương cao 35, 40cm. Một số lớn có ký tên người làm và đề rõ năm tháng, như vợ chồng Ðặng Huyền Thông - Nguyễn Thị Ðỉnh, vợ chồng Ðỗ Xuân Vi - Lê Thị Ngọc, vợ chồng Bùi Duệ - Lê Thị Cận, Ðặng Hữu, Ðặng Tính Không…
quangnam :: NGHE THUAT :: DO GOM
Trang 1 trong tổng số 1 trang
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết
|
|